Kim sách phong Phi Võ_Thị_Viên

Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (quyển 83: Sách của phi tần), quyển sách cho các phi tần ngự thiếp đều được làm bằng bạc, riêng sách của Phi vị được mạ vàng. Sách của Phi có 5 tờ (10 trang): 2 tờ bìa khắc mây và chim phượng; các tờ còn lại khắc sách văn. Các tờ có kích thước như sau: dài 5 tấc 4 phân (tương đương 21,6 cm bây giờ), rộng 3 tấc 2 phân 4 ly (tương đương 12,96 cm bây giờ)[4]. Tuy nhiên, quyển sách phong của Lương phi Võ Thị Viên lại có kích cỡ 14 × 23 cm, nặng hơn 7 kg. Đây là điều khá đặc biệt mà vua đã dành cho bà[5].

Nội dung sách văn được tạm dịch như sau:

“Thiệu Trị năm thứ sáu, Bính Ngọ, tháng Giêng, vượt qua ngày mồng một, Đinh Tỵ, được 20 ngày (tức ngày Bính Tí). Thừa thiên hưng vận, hoàng đế ban rằng: Trẫm nghĩ: Vương gia giáo hóa ưu tiên lấy biểu nghi làm chuẩn mực. Khánh lễ quốc gia, theo phép gia ân lớn tự bên trong. Chọn được ngày lành. Ban ra ân chiếu. Đoái nghĩ lương tần họ Võ: Con nhà danh giá, công lao. Tư cách đằm thắm thận trọng. Đoan trang tốt đẹp hết sức trợ giúp cung cấm, dạy bảo thuận hòa. Cung kính nết hạnh, dốc lòng phụng thờ bề trên, dịu dàng khuôn phép. Vui vẻ chiều ý đức Từ[6]. Khéo khôn nhận đầy sủng mệnh. Đúng dịp trẫm mới lên tuổi sơ thọ[7], nên ân ban khắp chốn đất trời. Nay đang cậy đức lớn đức Từ, cần lớn lao để thêm long trọng. Dựa theo phép tắc. Để ngợi khen riêng. Nay đặc biệt tấn phong ngươi là Lương phi. Phi hãy: Cung nhận tiếng khen. Kính tuân giáo huấn. Thuận kính đúng theo khuôn mẫu, không có điều lầm lẫn, phúc lành mới được nương nhờ, còn mãi chở che. Kính thay.”[5]

Quyển sách phong của Lương phi Võ thị trước đây thuộc bộ sưu tập của ông Hồ Đình Xuân, được bán đấu giá ở Paris, Pháp vào năm 1996[5]. Vào năm 2010, quyển sách phong này đã được nhà sưu tầm cổ vật Cao Xuân Trường mang về Việt Nam với giá hơn 2 tỷ VNĐ[8].

Nhiều người khẳng định: “Đây cũng là cuốn sách phong duy nhất làm bằng bạc mạ vàng còn tồn tại, vì ở Việt Nam và hải ngoại, người ta chỉ còn trông thấy một số đồng sách (sách phong bằng đồng) và thể sách (sách phong bằng lụa) mà thôi, chủ yếu mang niên hiệu từ đời Tự Đức trở về sau”[5][8]. Sở dĩ như vậy là vì, sau thất bại trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Pháp và buộc phải ký hòa ước Nhâm Tuất (1862), vua Tự Đức phải gom gần như toàn bộ vàng bạc trong quốc khố, cũng như thu hồi một số bảo vật bằng vàng và bạc ở các cung để bồi thường cho Pháp và Tây Ban Nha. Năm 1869, Tự Đức ra lệnh cho các hoàng thân, công chúa... nộp lại kim ấn và kim sách đã ban trước đây để triều đình đúc thành vàng mà dùng. Sau đó, vua đã cấp lại cho họ những sách ấn bằng đồng[5].